IV. VIỆC CỬ HÀNH BÍ TÍCH TRUYỀN CHỨC THÁNH

    Xem nhanh

 

Huius sacramenti celebratio


Vì tầm quan trọng đối với đời sống Giáo Hội địa phương, nếu có thể được nên có nhiều tín hữu tham dự lễ phong chức giám mục, linh mục và phó tế. Lễ phong chức nên cử hành một cách long trọng vào ngày Chúa nhật và tại nhà thờ Chánh Toà. Nghi thức phong chức giám mục, linh mục và phó tế đều diễn tiến như nhau và được cử hành trong Thánh lễ.

Nghi thức chính yếu của bí tích Truyền Chức cho cả ba cấp bậc, là giám mục đặt tay trên đầu tiến chức, cùng với lời nguyện phong chức xin Thiên Chúa ban cho tiến chức đầy tràn ơn Chúa Thánh Thần và những ân sủng đặc biệt để chu toàn thừa tác vụ sắp lãnh nhận (x. Piô XII, tông hiến "Bí tích Truyền Chức Thánh": DS 3858).

Như các bí tích khác, nghi lễ phong chức cũng có những nghi thức phụ. Tuy rất khác nhau trong những truyền thống phụng vụ, nhưng các nghi thức phụ này đều diễn đạt nhiều khía cạnh của ân sủng bí tích. Trong nghi lễ La-tinh, có những nghi thức khai mạc gồm việc giới thiệu và tuyển chọn tiến chức, huấn dụ của giám mục, khảo hạch tiến chức, kinh cầu các thánh.

Những nghi thức khai mạc xác nhận ứng viên được tuyển chọn đúng theo tập tục của Hội Thánh, và chuẩn bị cho nghi thức phong chức. Sau nghi thức phong chức, còn có những nghi thức biểu trưng dùng để diễn tả và hoàn tất mầu nhiệm vừa cử hành: tân giám mục và tân linh mục được xức dầu thánh, biểu trưng cho việc Thánh Thần xức dầu cách đặc biệt làm cho thừa tác vụ của các ngài được hiệu quả; vị tân giám mục nhận sách Phúc Âm, nhẫn, mũ và gậy như dấu chỉ cho sứ mạng tông đồ của ngài là rao giảng Lời Chúa, trung thành với Hội Thánh là Hiền Thê của Đức Kitô, và là mục tử chăm sóc đoàn chiên Chúa; tân linh mục lãnh nhận đĩa và chén thánh, dùng để dâng "lễ vật của Dân Thánh" lên Thiên Chúa; tân phó tế nhận sách Phúc Âm vì sứ mạng của ngài là rao giảng Phúc Âm.

V. AI CÓ THỂ BAN BÍ TÍCH NÀY?

Quis potest hoc sacramentum conferre?


Chính Đức Kitô đã tuyển chọn và cho các tông đồ tham dự vào sứ mạng và quyền bính của Người. Khi lên ngự bên hữu Chúa Cha, Người không bỏ rơi đoàn chiên nhưng luôn nhờ các tông đồ, giữ gìn, che chở và hướng dẫn đoàn chiên đó nhờ các mục tử ngày nay vẫn tiếp tục công trình của Người (Kinh tiền tụng lễ các Tông Đồ I: Sách Lễ Rôma). Chính Đức Kitô cho kẻ này làm tông đồ, kẻ khác làm mục tử (x. Ep 4,11), Người tiếp tục hoạt động như thế qua các giám mục (CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 21).

Vì bí tích Truyền Chức là bí tích ban thừa tác vụ tông đồ, nên chỉ các giám mục, với tư cách là những người kế nhiệm các tông đồ có quyền ban "hồng ân thiêng liêng" (CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 21) và "hạt giống tông đồ" (CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 20). Các giám mục được tấn phong thành sự, nghĩa là trong chuỗi kế nhiệm tông đồ, có quyền tấn phong thành sự ba cấp bậc của bí tích Truyền Chức (ĐGH Innôcentê III, DS 794 & 8022; CIC, 1012; CCEO, 744; 747).

 

 

VI. AI CÓ THỂ LÃNH NHẬN BÍ TÍCH NÀY?

Quis potest hoc recipere sacramentum?


 


"Chỉ người nam đã chịu phép rửa tội mới được lãnh nhận bí tích Truyền Chức" (x. CIC, 1024) cách thành sự. Chúa Giêsu đã tuyển chọn những người nam để lập nhóm Mười Hai Tông Đồ (x. Mc 3,14-19; Lc 6,12-16) và các tông đồ cũng làm như vậy khi tuyển chọn các cộng sự viên (x.1Tm 3,11-13; 2Tm 1-6; Tt 1,5-9) để tiếp nối sứ mạng của mình (Thánh Clêmentê Rôma, thư gửi tín hữu Côrintô 42,4; 44,3).

Giám mục đoàn cùng với các linh mục hiệp nhất với các ngài trong chức tư tế, hiện tại hoá nhóm Mười Hai cho đến ngày Chúa lại đến. Hội Thánh bị ràng buộc với sự chọn lựa của Chúa, nên không thể phong chức cho người nữ (ĐGH Gioan Phaolô II, Tông thư Mulieris dignitatem, 26-27; CDF; décl. "Inter.insigniores").

Không ai có quyền đòi được chịu chức thánh. Không ai được coi mình là xứng đáng với chức vụ này. Phải được Chúa kêu gọi (x.Dt 5,4). Ai thấy mình có những dấu hiệu được Chúa kêu gọi lãnh nhận thừa tác vụ thánh, phải khiêm tốn trình bày nguyện vọng lên giáo quyền. Giáo quyền có trách nhiệm và quyền gọi một người lãnh nhận chức thánh. Như mọi ân sủng, bí tích này chỉ được lãnh nhận như một hồng ân nhưng không.

Trong Giáo Hội La-tinh, trừ các phó tế vĩnh viễn, mọi thừa tác viên có chức thánh thường được tuyển chọn từ những người nam sống độc thân và có ý giữ độc thân "vì Nước Trời" (Mt 19,12). Được mời gọi tận hiến cho Chúa để "lo việc của Người" (x.1Cr 7,32), các ngài hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa và con người. Đời sống độc thân là dấu chỉ của sự sống mới mà các thừa tác viên của Hội Thánh được thánh hiến để phục vụ. Nếu hân hoan đón nhận đời sống độc thân này, các ngài sẽ loan báo Nước Trời hữu hiệu hơn ( CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh  Presbyterorum ordinis, 16).

Trong các Giáo Hội Đông Phương, từ nhiều thế kỷ nay, có một tập tục khác: chỉ các giám mục được tuyển chọn trong những người độc thân; còn linh mục và phó tế có thể được tuyển chọn trong những người đã lập gia đình. Tập tục này từ lâu vẫn được coi là chính đáng. Các linh mục này thi hành thừa tác vụ hữu hiệu giữa cộng đoàn ( CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, 16). Hơn nữa, sự độc thân của các linh mục rất được trân trọng trong các Giáo Hội Đông Phương và nhiều linh mục đã tự nguyện sống độc thân vì Nước Trời. Ở Phương Đông cũng như Phương Tây, người đã nhận chức thánh không được phép lập gia đình nữa.

 

VII. NHỮNG HIỆU QUẢ CỦA BÍ TÍCH TRUYỀN CHỨC THÁNH

Effectus sacramenti Ordinis


 

Ấn tín vĩnh viễn

Character indelebilis
Nhờ ân sủng đặc biệt của Chúa Thánh Thần, bí tích này làm cho thụ nhân nên giống Đức Kitô để trở thành khí cụ phục vụ Hội Thánh Người. Nhờ chức thánh, các ngài có thể thi hành chức vụ của Đức Kitô là Đầu Hội Thánh trong ba nhiệm vụ tư tế, ngôn sứ và vương đế.

Như trường hợp bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, việc tham dự vào chức vụ của Đức Kitô nhờ bí tích Truyền Chức dù được lãnh nhận một lần ở mỗi cấp. Bí tích Truyền Chức cũng in một ấn tín thiêng liêng vĩnh viễnnên không thể lãnh nhận nhiều lần hay lãnh nhận tạm thời (x. CĐ Trentô: DS 1767; CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 21; 28;29; PO 2).

Người lãnh nhận chức thánh thành sự, vì lý do hệ trọng, có thể được chước miễn những bổn phận và chức vụ gắn liền với chức thánh hay bị cấm thi hành chức vụ (CIC, 290-293;1336,1, s3.s5; 1338,2), nhưng không thể trở về bậc giáo dân đúng nghĩa (CĐ Trentô: DS 1774) vì ấn tín bí tích Truyền Chức không thể xoá bỏ được. Ơn gọi và sứ mạng đã lãnh nhận trong ngày chịu chức thánh vẫn tồn tại mãi mãi.

Nói cho cùng, chính Đức Kitô hành động và thực hiện ơn Cứu Độ qua thừa tác viên có chức thánh, nên dù vị này bất xứng, cũng không ngăn cản được Người hành động (x. CĐ Trentô: DS 1612;DS 1154). Thánh Augustinô đã nói cách mạnh mẽ:

Thừa tác viên kiêu căng sẽ bị liệt vào hàng ma quỷ. Hồng Ân Đức Kitô không vì thế mà bị ô nhiễm. Dù chảy qua người bất xứng, ơn Chúa vẫn tinh tuyền, vẫn làm cho đất đai phì nhiêu... Sức thiêng của bí tích khác nào ánh sáng: những ai cần được soi sáng sẽ nhận được ánh sáng tinh tuyền, vì ánh sáng có ngang qua kẻ nhơ bẩn, thì ánh sáng cũng không bị nhơ bẩn (Tin Mừng thánh Gioan 5,15).

Ân sủng của Chúa Thánh Thần

Gratia Spiritus Sancti


Ơn riêng Chúa Thánh Thần được ban trong bí tích này làm cho thụ nhân vừa nên giống, vừa nên thừa tác viên của Đức Kitô là Thượng Tế, Thầy Dạy và Mục Tử.

Giám mục lãnh nhận trước tiên là ơn sức mạnh ("Thánh Thần Thủ Lãnh": lời nguyện tấn phong giám mục trong nghi lễ La-tinh), để ngài can đảm và khôn ngoan bảo vệ và hướng dẫn Hội Thánh như người cha và người mục tử quảng đại yêu thương mọi người, nhất là những người nghèo khổ, bệnh tật, thiếu thốn (CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Christus Dominus, 13,16).

Ơn này thúc đẩy ngài loan báo Tin Mừng cho mọi người, trở nên mẫu mực cho đoàn chiên, đi tiên phong trên đường thánh thiện bằng cách kết hiệp với Đức Kitô Tư Tế và Hiến Lễ trong bí tích Thánh Thể, dám hiến mạng sống vì đoàn chiên.

Lạy Cha! Đấng hằng thấu suốt các tâm hồn, xin ban ơn cho tôi tớ mà Cha đã chọn làm giám mục để ngài hướng dẫn đoàn chiên thánh, và chu toàn tốt đẹp chức tư tế cao cả bằng cách ngày đêm phụng sự Cha, xin cho ngài luôn bày tỏ dung mạo nhân từ của Cha và dâng lễ vật của Hội Thánh lên Cha; nhờ chức tư tế cao cả, xin cho ngài quyền tha thứ tội lỗi theo lệnh truyền của Cha, phân phối các chức vụ theo ý Cha và dùng quyền Cha ban cho các tông đồ mà tháo cởi mọi dây ràng buộc, ước chi ngài được đẹp lòng Cha nhờ tấm lòng trong sạch và dịu hiền như hương thơm dâng lên Cha, nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Cha... (x Thánh Hippôlytô Rôma, truyền thống Tông đồ 3).

Kinh nguyện riêng của nghi lễ Byzantin làm nổi bật ơn Chúa Thánh Thần ban cho người chịu chức linh mục. Khi đặt tay, vị giám mục nói:
“Lạy Chúa, xin ban tràn đầy Thánh Thần xuống cho người được Chúa thương nâng lên hàng linh mục để ngài xứng đáng đứng trước bàn thờ Chúa, loan báo Tin Mừng Nước Chúa, chu toàn việc phục vụ Lời Chân Lý, dâng lên Cha của lễ và hy tế thiêng liêng, canh tân Dân Cha bằng nước tái sinh, để ngài được gặp Đức Giêsu Kitô, Con Một Cha là Thiên Chúa và là Đấng Cứu độ chúng con trong ngày Người quang lâm và nhờ lòng nhân từ của Cha, được lãnh nhận phần thưởng vì đã trung thành với chức vụ (Euchologion).

"Được ân sủng bí tích bồi bổ, các phó tế hiệp thông với giám mục và linh mục đoàn, chăm sóc dân Thiên Chúa, với "vai trò phục vu" trong phụng vụ, trong việc rao giảng và bác ái" (CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 29).


Đứng trước ơn thánh cao cả và chức vụ tư tế, các thánh tiến sĩ tha thiết mời gọi những người lãnh nhận chức thánh hoán cải để sống xứng đáng với Đấng đã dùng bí tích đặt họ làm thừa tác viên. Vì thế, Thánh Grêgôriô Nazianzênô, khi còn là linh mục trẻ, đã kêu lên:
Trước tiên phải thanh luyện mình rồi mới thanh luyện kẻ khác, phải học rồi mới dạy dỗ, phải trở nên ánh sáng rồi mới chiếu soi, phải đến với Chúa rồi mới kéo kẻ khác được, phải tự thánh hoá mới thánh hoá kẻ khác, phải đưa tay dẫn dắt và cho những lời khuyên bảo khôn ngoan. Tôi biết chúng ta là thừa tác viên của ai, chúng ta ở địa vị nào, chúng ta hướng về ai. Tôi biết Thiên Chúa cao cả và con người yếu đuối, và biết cả sức lực của con người (Thánh Grêgôriô Nazianzênô 2,71).

Vậy linh mục là ai? Là người bảo vệ chân lý, được đứng chung với các thiên thần, cùng ca hát với các tổng lãnh thiên thần, mang lễ vật lên bàn thờ thiên quốc, chia sẻ chức tư tế với Đức Kitô, sẽ tái tạo vạn vật, sẽ phục hồi hình ảnh Thiên Chúa nơi thụ tạo, sẽ là công nhân cho thế giới thiên quốc; và, cho tôi nói điều cao cả hơn nữa, linh mục sẽ là  một vị thần và làm cho những người khác nên những vị thần”
Cha thánh xứ Ars nói: "Linh mục tiếp nối công trình cứu độ trên trái đất..." "Nếu hiểu rõ linh mục là ai, người ta sẽ chết không phải vì sợ hãi, mà vì yêu mến..." "Linh mục chính là tình thương của Thánh Tâm Chúa Giêsu" (B. Nodet, Le Curé d’Ars, Sa pensée – son coeur ).


TÓM LƯỢC

Compendium


Thánh Phaolô nói với Timôthê môn đệ của mình: "Tôi nhắc anh phải khơi lại đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng anh đã nhận được khi tôi đặt tay trên anh" (2Tm 1,6) và "Ai mong được làm giám quản, người ấy ước muốn một nhiệm vụ cao cả" (1Tm 3,1). Ngài nói với Titô: "Tôi đã để anh ở lại đảo Kêta, chính là để anh hoàn thành công việc tổ chức, và đặt những kỳ mục trong mỗi thành như tôi đã truyền cho anh" (Tt 1,5).

Toàn thể Hội Thánh là một dân tư tế. Nhờ bí tích Thánh Tẩy, mọi tín hữu tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô. Sự tham dự này được gọi là "chức tư tế cộng đồng". Trên nền tảng của chức tư tế cộng đồng và để phục vụ chức tư tế này, còn có sự tham dự khác vào sứ mạng của Đức Kitô, đó là chức tư tế thừa tác được trao ban qua bí tích Truyền Chức, với trách nhiệm phục vụ trong cộng đoàn nhân danh Đức Kitô và thi hành chức vụ thủ lãnh của Người. 

Tự bản chất, chức tư tế thừa tác khác với chức tư tế cộng đồng, vì ban cho thụ nhân quyền thánh chức để phục vụ các tín hữu. Các thừa tác viên có chức thánh phục vụ dân Chúa qua việc giảng dạy, cử hành Phụng vụ và hướng dẫn Mục vụ.

Từ ban đầu, thừa tác vụ thánh được trao ban và thể hiện theo ba bậc: giám mục, linh mục và phó tế. Các thừa tác vụ được trao ban qua bí tích truyền chức không thể thiếu được cho cấu trúc hữu cơ của Hội Thánh: không thể quan niệm một Hội Thánh mà không có giám mục, linh mục và phó tế (Thánh Ignatiô Antiôchia, Thơ gửi Tralianô, 3,1).

Giám mục lãnh nhận cách tròn đầy bí tích Truyền Chức. Qua đó, các ngài gia nhập giám mục đoàn và trở thành thủ lãnh hữu hình của Hội Thánh địa phương được giao cho các ngài. Với tư cách là người kế nhiệm các tông đồ và là thành viên của giám mục đoàn, các giám mục chia sẻ trách nhiệm tông đồ và sứ mạng của toàn thể Hội Thánh dưới quyền Đức Giáo Hoàng, Đấng kế nhiệm thánh Phêrô.

Các linh mục liên kết với giám mục trong phẩm chức tư tế và tùy thuộc các ngài trong công tác mục vụ. Các linh mục được mời gọi để trở thành cộng sự viên khôn ngoan của các giám mục, họp thành linh mục đoàn quanh giám mục, cùng chia sẻ trách nhiệm với ngài về giáo hội địa phương. Các linh mục được giám mục trao trách nhiệm chăm sóc một cộng đoàn giáo xứ, hay chỉ định một công việc phục vụ Hội Thánh.

Các phó tế là những thừa tác viên được phong chức để phục vụ Hội Thánh. Các phó tế không có chức tư tế thừa tác, nhưng qua việc phong chức, các ngài lãnh nhận nhiệm vụ quan trọng trong thừa tác vụ rao giảng Lời Chúa, lo việc phụng tự, chăm sóc cộng đoàn và thực thi bác ái. Đó là những nhiệm vụ các ngài phải chu toàn dưới quyền mục vụ của giám mục.

Bí tích Truyền Chức được trao ban qua việc đặt tay của giám mục. Sau đó là lời nguyện phong chức trọng thể, cầu xin Chúa ban cho tiến chức những ân sủng cần thiết cho thừa tác vụ. Bí tích Truyền Chức in ấn tín vĩnh viễn.

Hội Thánh chỉ truyền chức cho người nam đã được rửa tội sau khi kiểm tra chắc chắn họ có khả năng thi hành chức vụ được giao. Chỉ giáo quyền có trách nhiệm và có quyền chọn một người lãnh nhận chức thánh.

Trong Giáo Hội La-tinh, thường chỉ truyền chức linh mục cho các ứng viên tự nguyện sống độc thân và công khai biểu lộ ý muốn này vì yêu mến Nước Trời và phục vụ tha nhân.

Chỉ có giám mục mới đủ thẩm quyền tấn phong ba cấp bậc của bí tích Truyền Chức.