Dạy về mười điều răn Đức Chúa Trời - Điều răn thứ nhất (Phần 2: 117H-150H)

    Xem nhanh

ĐOẠN THỨ NHẤT
Dạy về mười điều răn Đức Chúa Trời

117. H. Chịu phép rửa tội cùng tin đạo thánh Đức Chúa Trời, có đủ cho được lên thiên đàng chăng?

T. Chẳng đủ, vì ai đã đến tuổi khôn thì phải giữ Mười điều răn Đức Chúa Trời cùng sáu điều răn Hội Thánh nữa.

118. H. Mười điều răn tóm lại mấy sự?

T. Tóm lại hai sự này: một là kính mến Đức Chúa Trời, hai là thương yêu người ta.

119. H. Mấy điều răn chỉ về kính mến Đức Chúa Trời, mấy điều răn chỉ về thương yêu người ta?

T. Ba điều răn trước chỉ về kính mến Đức ChúaTrời; bảy điều răn sau chỉ về thương yêu người ta.

120. H. Ai truyền mười điều răn cho loài người ta?

T. Hễ người nào sinh ra thì Đức Chúa Trời đã in mười điều răn trong lòng kẻ ấy, gọi là đạo tự nhiên: song le bởi nhiều người hay quên chẳng cứ, thì Đức Chúa Trời lại thích trên hai bia đá mà truyền cho tổ tông dân Giu-dêu xưa.

ĐIỀU RĂN THỨ NHẤT

Thờ phượng Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự

121. H. Điều răn thứ nhất dạy phải giữ mấy sự?

T. Điều răn thứ nhất dạy phải giữ bốn sự này: một là tin, hai là cậy, ba là kính mến, bốn là thờ phượng Đức Chúa Trời.

122. H. Nhân đức tin là cái gì?

T. Là ơn Đức Chúa Trời ban cho ta được tin thật những lời Đức Chúa Trời phán cùng Hội Thánh truyền.

123. H. Vì sao ta phải tin những lời Đức Chúa Trời phán?

T. Vì Đức Chúa Trời là Đấng sáng láng vô cùng chẳng hay sai lầm cũng là Đấng thật thà vô cùng chẳng hề dối được.

124. H. Vì sao ta phải tin những lời Hội thánh truyền?

T. Vì Đức Chúa Giêsu đã phán hứa Người sẽ ở cùng môn đệ cho đến tận thế, cho nên Hội thánh truyền sự gì thì sự ấy rất thật chẳng sai.

125. H. Những sự cần hơn phải tín là những sự gì?

T. Là những sự này: một là tin có một Đấng cội rễ dựng nên Trời đất hay thưởng phạt vô cùng, mà Đấng ấy có ba Ngôi, Ngôi Nhất là Cha; hai là tin Đức Chúa Giêsu Ki-tô là Ngôi thứ Hai, Con Một Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi Người đã ra đời và chịu nạn chịu chết vì ta nữa;

ba là tin Đức Chúa Thánh Thần là Đức Chúa Trời Ngôi thứ Ba; cùng tin Hội Thánh hằng có ở khắp thế này, các Thánh cùng thông công, mà trong Hội thánh có nhiều phép tha tội cho ta, và xác thịt ta này, chết đoạn ngày sau sẽ được sống lại cùng hằng sống vậy.

126. H. Tội phạm đến đức Tin có mấy thể?

T. Có bốn thể này: một là chẳng tin mọi sự Hội Thánh truyền, như kẻ chưa có đạo và kẻ rối đạo; hai là kẻ có đạo vì sợ sự khốn khó phân xác hay là hổ thẹn mà chối đạo; ba là kẻ có ý hồ nghi sự gì trong phép đạo; bốn là làm biếng chẳng muốn học những sự phải biết cho được rỗi linh hồn.

127. H. Nhân đức cậy là gì?

T. Là ơn làm cho ta được trông cậy vững vàng, Đức Chúa Trời sẽ ban sức mạnh mà giữ đạo nên ở đời này và ngày sau được lên thiên đàng.

128. H. Vì sao ta phải trông cậy những sự ấy?

T. Ta phải trông cậy vì Đức Chúa Trời phép tắc vô cùng, lòng lành vô cùng, đã phán hứa những sự ấy cho Ta vì công nghiệp Đức Chúa Giêsu.

129. H. Ta có phải trông cậy Đức Chúa Trời ban của cải đời này nữa chăng?

T. Phải: vì Đức Chúa Trời là chính Đấng có phép ban của ấy cho ta, song le ta phải trông cậy cùng xin của ấy cho đươc rỗi linh hồn mà thôi.

130. H. Tội phạm đến nhân đức Cậy có mấy thể?

T. Có bốn thể này: một là ngã lòng chẳng trông cậy Đức Chúa Trời tha tội cho mà chẳng chịu trở lại; hai là trông cậy quá lẽ mà giãn ra chẳng trở lại cho kịp; ba là cậy sức mình mà liều mình phạm tội cùng ngờ rằng: muốn trở lại ăn năn tội bao giờ thì được bấy giờ; bốn là chẳng cậy Đức Chúa Trời một cậy sức riêng mình cùng cậy sức người thế gian và khi gặp sự gì chẳng vừa ý mình liên buồn quá cùng cả lòng kêu trách Đức Chúa Trời.

131. H. Nhân đức Kính mến là đức gì?

T. Là ơn trọng nhất làm cho ta kính mến Đức Chúa Trời trên hết mọi sự cùng thương yêu người ta bằng mình vì Đức Chúa Trời.

132. H. Vì sao ta phải kính mến Đức Chúa Trời.

T. Vì ba lẽ này: một là vì Đức Chúa Trời là Đấng tốt lành vô cùng; hai là vì Đức Chúa Trời hằng xuống muôn ơn cho ta; ba là vì Đức Chúa Trời khiến ta kính mến người cho khỏi mọi sự dữ và được mọi sự lành.

133. H. Kính mến Đức Chúa Trời trên hết mọi sự nghĩa là làm sao?

T. Nghĩa là lấy Đức Chúa Trời làm hơn của cải, hơn cha mẹ, hơn mình, cũng thà chết chẳng thà mất lòng Đức Chúa Trời.

134. H. Vì sao ta phải thương yêu người ta?

T. Vì hai lẽ này: một là vì đạo tự nhiên dạy phải thương yêu kẻ thuộc về một loài cùng mình; hai là vì đã có lời Đức Chúa Trời răn dạy phải thương yêu người ta bằng mình ta vậy.

135. H. Đức Chúa Giêsu có dạy sự gì riêng về nhân đức thương yêu người ta chăng?

T. Đức Chúa Giêsu đã phán dạy rằng: Nếu các con có lòng thương yêu nhau, thì mọi người mới biết chúng con là môn đệ Ta.

136. H. Thương yêu người ta bằng mình, nghĩa là làm sao?

T. Nghĩa là những sự gì ta chẳng muốn kẻ khác làm cho ta, thì ta đừng làm những sự ấy cho kẻ khác; còn những sự nào ta muốn kẻ khác làm cho ta thì ta cũng phải ra sức làm những sự ấy cho kẻ khác nữa.

137. H. Kẻ chẳng lấy cùng chẳng cầm và chẳng làm thiệt hại của người ta, có đủ cho được gọi là kẻ đã giữ nhân đức thương yêu người ta chăng ?

T. Chẳng đủ, vì chưng còn phải giúp kẻ thiếu thốn về phần linh hồn cùng phần xác nữa.

138. H. Kẻ có của mà chẳng làm phúc cho kẻ khó khăn có tội chăng?

T. Có tội, vì chưng Đức Chúa Giêsu đã phán rằng: ai chẳng làm phúc cho kẻ đói khát túng cực, thì như chẳng làm phúc cho Người vậy, cho nên Người sẽ loại ra, chẳng nhận vào nước thiên đàng

139. H. Có phải thương yêu những kẻ làm mất lòng ta chăng?                 

T. Có vì Đức Chúa Giêsu đã phán dạy tỏ tường làm vậy, cho nên ta phải thương yêu những kẻ ấy cùng làm ơn và cầu cho nó thì mới được làm cho Cha Cả còn dủ lòng thương kẻ nghịch cùng Người.

140. H. Phạm tội đến nhân đức kính mến có mấy thể?

T. Có ba thể này: một là giận ghét Đức Chúa Trời; hai là yêu mến sự gì hơn hay là bằng Đức Chúa Trời; ba là ghen ghét thù oán và chẳng thương giúp người ta.

141. H. Có phải năng giục lòng tin, cậy, kính mến chăng?

T. Càng năng giục lòng tin, cậy, kính mến hơn, thì càng được phúc hơn; song le mới có trí khôn cùng kẻ dọn mình chịu phép nào, và khi ma quỷ cám dỗ, cùng đến giờ chết, thì càng phải ra sức tin, cậy, kính mến hơn nữa.

142. H. Nhân đức thờ phượng là gì?

T. Là ơn Đức Chúa Trời ban cho ta hạ mình xuống trước mặt Đức Chúa Trời mà xưng ra có một Đức ChúaTrời là cội rễ cùng là Chúa cả cai trị mọi sự, thì ta phải thờ lạy Đức Chúa Trời cùng kính các đấng thuộc về Đức Chúa Trời cách riêng và những sự về thờ phượng Đức Chúa Trời nữa.

143. H. Có nên thờ phượng Rất thánh Đức Bà cùng các Thánh bằng Đức Chúa Trời chăng?

T. Chẳng nên, một phải kính Rất thánh Đức Bà cùng các Thánh, vì là Đấng đã có công trọng làm tôi ngay đẹp lòng Đức Chúa Trời.

144. H. Rất thánh Đức Bà cùng các Thánh có được ban ơn cho ta chăng?

T. Chẳng được, vì có một Đức Chúa Trời là chính Đấng ban ơn cho ta mà thôi.

145. H. Nếu vậy, ta cầu cùng Rất thánh Đức Bà và các Thánh có ý nào?

T. Có ý cầu cùng Rất thánh Đức Bà và các Thánh bầu cử mà xin ơn Đức Chúa Trời cho ta.

146. H. Có phải kính những ảnh Đức Chúa Giêsu cùng Rất thánh Đức Bà và các Thánh chăng?

T. Phải, vì những ảnh ấy nhắc lại cho ta được nhớ công nghiệp Đức Chúa Giêsu cùng Rất thánh Đức Bà và các Thánh, song le ta chẳng nên tin ảnh ấy nguyên có phép riêng mà phù hộ cho ta đâu.

147. H. Phạm tội về nhân đức thờ phượng có mấy thể?

T. Có ba thể này: một là tội vô phép cùng Đức Chúa Trời; hai là tội thờ dông dài; ba là tội thờ dối trá.

148. H. Tội vô phép cùng Đức Chúa Trời là thế nào?

T. Là khi có ý tưởng sự gì nói lời gì, làm việc gì phạm đến Đức Chúa Trời hay là Rất thánh Đức Bà cùng các Thánh, và khi bỏ đọc kinh lâu ngày hay là đọc chẳng nên, cũng làm hư phép thánh và khinh dễ những kẻ dâng mình cho Đức Chúa Trời cách riêng, như kẻ đã chịu phép cắt tóc, cùng những kẻ đã khấn trọng thể trong Dòng.

149. H. Tội thờ dông dài là thế nào?

T. Là thờ trái thói trái phép cùng trái ý Hội thánh, như khi thờ phượng Đức Chúa Trời những cách lạ Hội Thánh chẳng quen dùng, hay là đọc kinh nào pha những lời quấy quá, và khi cậy những đồ nguyên chẳng có phép tắc gì mà làm ích cho ta, cùng đoán sự may rủi bởi nghe thấy hay là gặp sự gì vốn chẳng có phép tắc nào.

150. H. Tội thờ dối trá là thế nào?

 T. Là thờ đấng nào loài nào bằng Đức Chúa Trời cùng làm hay là giúp việc gì về đàng dối trá và cầu khẩn với ma quỷ cho được làm ích hay là làm hại người ta, cũng vậy những phù phép cho được biết sự kín sự xa cùng sự chưa đến.